Teo ruột non

Teo ruột non là gì?

  • Teo ruột non là một dị tật bẩm sinh của đường ruột, trong đó một hay nhiều đoạn ruột bị teo nhỏ và mất đi chức năng chứa và hấp thu thức ăn. Nguyên nhân là do thiếu máu nuôi làm thiểu sản đoạn ruột. Bệnh gặp ở khoảng 1/4.000 trẻ sinh ra sống.
  • Có nhiều dạng teo ruột non khác nhau (Loại 1, 2, 3a,3b, 4) nhưng tất cả đều có đặc điểm chung là có sự gián đoạn lưu thông của lòng ruột.
Hình 1: Các dạng teo ruột non. A: loại 1, B: loại 2, C: loại 3A, D: loại 3B, E: loại 4

Triệu chứng

  • Trong khi mang thai, mẹ có thể được phát hiện đa ối trên siêu âm. Nhiều bé bị tắc ruột cao có thể có hình ảnh dạ dày và tá tràng dãn to.
  • Sau khi sinh ra, trẻ biểu hiện bệnh bằng hội chứng tắc ruột cao gồm:
  • Ói sớm sau bú, ọc dịch xanh hay vàng (màu mật). Có thể muộn hơn nếu tắc ruột đoạn xa.
  • Trướng bụng: bụng trướng nhiều khi tắc ở đoạn ruột xa, tắc đoạn gần trướng sớm phần bụng trên.
  • Có thể không đi phân su.
  • Các triệu chứng kèm theo có thể: vàng da, da khô do mất nước…

Một số xét nghiệm cần thực hiện

  • Siêu âm bụng: có thể thấy quai ruột dãn và các dấu hiệu tắc ruột. Siêu âm bụng có thể có thể giúp phát hiện một trong những nguyên nhân gây tắc ruột nguy hiểm cần loại trừ là ruột xoay bất toàn có hoặc không xoắn ruột
  • Chụp X Quang bụng không sửa soạn: cho thấy hình ảnh tắc ruột với các mực nước hơi và không thấy hơi xuống ruột bên dưới. Đôi khi thấy một vài quai ruột dãn to (hình 2) hoặc hình ảnh hơi tự do trong ổ bụng do thủng túi cùng trên chỗ teo bị thiếu máu và hoại tử khi bệnh nhân đến trễ
  • Xét nghiệm máu thông thường, điện giải đồ trong máu và xét nghiệm trước mổ.

 Chẩn đoán

  • Siêu âm tiền sản: mẹ đa ối, có thể thấy hình ảnh quai ruột dãn tron bụng thai nhi.
  • Lâm sàng: có dấu hiệu tắc ruột như đã nêu trên
  • Xét nghiệm hình ảnh: có hình ảnh tắc ruột.
Hình 2: Vài quai ruột non trên chỗ tắc giãn to
  • Các chẩn đoán phân biệt có thể gồm: tắc ruột phân su, bệnh Hirschsprung, xoắn ruột, thoát vị nội bẩm sinh, suy giáp bẩm sinh…

Điều trị

  • Trẻ sẽ được đặt ống thông dạ dày giải áp, cho nhịn và nuôi ăn qua đường tĩnh mạch kèm với bồi hoàn nước và điện giải. Kháng sinh cũng rất cần thiết.
  • Khi ổn định trẻ nên được phẫu thuật sớm. Mục đích của phẫu thuật là tái lập lưu thông ruột bằng cách khâu nối ruột kèm với loại bỏ đoạn ruột mất chức năng.
  • Trẻ có thể phải làm hậu môn nhân tạo tạm thời khi nếu không thể nối ruột được vì nhiều nguy cơ cho miệng nối ruột hay cho toàn trạng của trẻ. Đa số các trường hợp sẽ được khâu nối ruột một thì.
  • Sau phẫu thuật trẻ sẽ phải nhịn ăn đường miệng và được tiếp tục điều trị nội khoa hỗ trợ bao gồm giảm đau, kháng sinh, bồi hoàn nước điện giải và nuôi ăn tĩnh mạch. Sau 48 giờ ngày nếu ruột thông thương tốt trẻ sẽ được cho ăn lại dần. Chăm sóc vết mổ mỗi ngày và cắt chỉ sau 1 tuần.
  • Trong trường hợp miệng nối trên cao và có nguy cơ chậm hoạt động miệng nối bé sẽ được đặt 1 ống vào đoạn đầu ruột non và đưa ra da để nuôi ăn cho đến khi bé có thể ăn được bằng đường miệng hoàn toàn thì rút bỏ ống thông này.
  • Trong trường hợp bệnh nhi có hậu môn tạm, việc cân nhắc đóng hậu môn tạm sau 2-8 tuần tùy vị trí teo và tùy tình trạng bệnh nhi tại thời điểm đó.

Dự hậu (tiên lượng)

  • Teo ruột non là bệnh cảnh khá nặng nề và tiên lượng bệnh chỉ ở mức trung bình.
  • Nếu trẻ sinh đủ tháng, không có nhiều dị tật hay bệnh lý đi kèm tiên lượng sống còn là 80%. Ngược lại khi trẻ sanh non, nhẹ cân, nhiều bệnh lý kèm theo tỉ lệ tử vong rất cao.
  • Sau khi phẫu thuật, trẻ còn có thể phải đối mặt với các vấn đề khác như: hội chứng ruột ngắn, chậm hoạt động miệng nối, tắc ruột do dính, nhiễm trùng bệnh viện…

Tài liệu tham khảo

  • Aguayo P., Ostlie D. J. (2010), Duodenal and Intestinal Atresia and Stenosis, Ashcraft’s Pediatric Surgery, pp: 400-415
  • Rode H. et Millar J.W. (2006), Jejuno-ileal Atresia, Pediatric Surgery, pp: 213-228

Be the first to comment

Leave a Reply

Your email address will not be published.


*